Chiến dịch giải phóngThượng Đức,
chiến thắng mang tầm chiến lược Góp phấn đánh bại âm mưu
chiến lược “Tràn ngập lãnh thổ” Phá
hoại Hiệp Định Pa-Ri của Mỹ-Ngụy
(Nhân kỷ niêm 40 năm chiến thắng Thượng Đức 07/ 8/1974 - 07/ 8/2014)
Đại tá Hồ Hữu Lạn
Nguyên, Trung đoàn trưởng Trung
đoàn3/f324
Chỉ huy chiến đấu giải phóng-,bảo vệ ThượngĐức .
Kính thưa toàn thể hội nghị:
Ngay sau hiệp định Pari (27/01/1973) được ký kết,
Mỹ ngụy ra sức phá hoại hiệp định. Chúng thực hiện âm mưu chiến lươc “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải
phóng. Địch bố trí nhiều lực lượng đồn trú, cắm sâu vào hậu phương chúng ta và
các vùng giáp ranh tranh chấp, nhằm ngăn chặn tiếp tế, chuyển quân, thăm dò,
móc nối mở rộng lấn chiếm hậu phương vùng giải phóng của ta, từng bước đẩy lùi
phong trào cách mạng miền Nam.
Trước
tình hình đó, Nghị quyết hội nghị lần thứ hai mươi mốt của BCHTW Đảng đã khảng
định “Con đường cách mạng miền Nam, là
con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào, ta cũng phải nắm vững
thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, và chỉ đạo linh hoạt để đưa
cách mạng miền Nam tiến lên” (Văn kiện
Đảng toàn tập, tập34 Nxb-CTQG, H2004,tr232)
Trên chiến trường, quân và dân ta đã
đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch. Với phương châm tấn công và làm chủ - làm
chủ để tấn công, phát huy thế và lực của cách mạng Miền Nam trong thời kỳ mới.
Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam lên kế hoạch tấn công giải
phóng một số mục tiêu của địch nằm sâu trên vùng giải phóng của ta như Chư
Nghé,Đắc Pét, Thượng Đức xóa các vết “da
báo”, xây dựng thế trận tấn công, rèn luyện lực lượng Bộ đội ta trên các
chiến trường, sẵn sàng chiến đấu để giải phóng Miền Nam.
Chi khu quân sự và Quận lỵ Thượng Đức là
cụm căn cứ vững chắc bảo vệ sườn Đà Nẵng, cách Đà Nẵng gần 50 km về phí Tây –
Tây Nam. Thượng Đức có địa hình hiểm yếu, nằm giữa hợp lưu sông Vu Gia và sông
Côn, liên hoàn với Gò Cấm – Ba Khe và động Hà Sống (Cao điểm 52), ba bề là núi
cao, dốc đứng, đồi núi hiểm trở, địch có điều kiện ngăn chặn ta từ xa bằng các
tiền đồn và lực lượng cơ động, thám báo…
Do đặc điểm địa hình hiểm trở, nên từ trước
đây, thời Pháp đến Mỹ, thời Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu đều thấy giá trị
chiến thuật, chiến dịch của địa hình Thượng Đức. Chúng ra sức xây dựng thành cụm
tiền đồn vững chắc, nhằm phát hiện ngăn chặn ta từ xa, bảo vệ an toàn cho Đà nẵng.
Quân khu 1 Ngụy được cố vấn Mỹ đầu tư
công của và tư vấn quân sự; đã bố trí xây dựng Thượng Đức một cụm tiền đồn mạnh,
hoàn chỉnh, kín đáo và hiểm hóc,có công sự vững chắc, hàng rào kẽm giai xen lẫn
các loại mìn kiên cố, cài cắm nhiều lực lượng vòng ngoài để phát hiện ta từ xa.
Thượng Đức nằm trong hệ thống phòng ngự mạnh, có lực lượng ứng cứu kịp thời. Với
một lực lượng ngụy quân, ngụy quyền phản động ngoan cố bậc nhất, do tên thiếu
tá quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng và thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 79 BĐQ
Hà Văn Lầu chỉ huy. Đẻ ngăn chặn quân ta tấn công, chúng dồn 13.000 dân về Hà
Tân để dễ bề kìm kẹp và làm bia đỡ đạn. Tông thống Nguyễn Văn Thiệu mệnh danh
Thượng Đức là “Mắt ngọc của đầu rồng”,
tỉnh trưởng Quảng Nam đặt tên Thượng Đức là “cánh cửa thép” bất khả xâm phạm bảo vệ khu liên hợp quân sự mạnh nhất
miền trung- Đà Nẵng. Bọn phản dộng đầu sõ ở Thượng Đức kiêu ngạo chủ quan tuyên
bố “Nước sông Vu Gia chảy ngươc thì Việt
Cộng mới chiếm được Thượng Đức”. Thượng Đức trở thành niềm tự hào, chỗ dựa
tin cậy của ngụy quân ngụy quyền và Đà Nẵng
Đối với ta, Thượng Đức như một cái gai cần
phải nhổ, một mắt xích cần phải chặt đứt để khai thông con đường tiến về đồng bằng,
giải phóng Đà Nẵng. Vì vậy tiêu diệt địch, giải phóng làm chủ Thượng Đức là một
yêu cầu cấp thiết, để tạo thế hiểm, lực mạnh bên sườn Đà Nẵng, là cửa mở, đầu cầu,
để thực hiện đòn tấn công hiểm vào giáp ranh đồng bằng và thành phố, chặt đất một
mắt xích phòng ngự của địch, uy hiếp đô thị, nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ - Ngụy.
Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam, do Trung tướng, Phó tổng TMT Lê Trọng Tấn trực
tiếp giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 304/Quân đoàn 2 sử dụng Trung đoàn 66, được tăng
cường Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324 chiến đấu, mở chiến dịch tấn công giải phóng Thượng Đức
Bộ chỉ huy chíến dịch, đặt tên chiến dịch
giải phóng Thượng Đức là K711 chia làm ba bước:
Bước
1:
Trung đoàn 66/f304 tấn công tiêu diệt cụm
căn cứ của tiểu đoàn 79 và chi khu quận lỵ Thượng Đức; Trung đoàn 3/f324 tiêu
diệt Gò Cấm, Ba Khe, bao vây Hà Sống, diệt pháo núi lở, chía cắt chiến dịch
đánh quân giải tỏa và bao vây đón lỏng phía Đông Thượng Đức, bảo đảm cho Trung
đòan 66/f304 dứt điểm.
Bước
2:
Trung đoàn 3/f324 tiêu diệt địch lên ứng
cứu co cụm ở Hà Nha, Bàn Tân và động Hà Sống (Điểm cao 52) kết thúc chiến dịch
tấn công e66/f304 làm dự bị.
Bước
3:
Phát triển chiến dịch (giao nhiệm vụ
sau). Sau này là chiến dịch phòng ngự đánh quân dù phản kích tái chiếm 5 tháng
trời bảo vệ vùng giải phóng tây Huyện Đại Lộc ( tháng 8 đến tháng 12 năm 1974).
Yêu cầu chiến dịch K711 tiêu diệt gọn, bắt
và xóa sổ các tổ chức phản động của chi khu quân sự và quận lỵ Thượng Đức, làm
chủ địa bàn, xây dựng hậu phương chiến lược của ta, sẵn sàng tấn công giải phóng
Đà Nẵng.
Trong quá trình chuẩn bị và thực hành
chiếm đấu, chúng tôi có sự giup đỡ và phối hơp chiến đấu của cấp ủy, chính quyền và nhân dân Quảng Đà, trực tiêp là các huyện
Giàng-Trao-Đại Lộc, dân quân du kich các xã Đại Lãnh, Đại Đồng, đã cùng hai
trung đoàn bộ binh và các đơn vị pháo bịnh, công binh làm đường kéo pháo, trinh
sát địa hình, trinh sát địch, hai tháng trời chuẩn bị chiến đấu.
5h ngày 29/7/1974, Trung đoàn 66/f304 tấn
công chi khu quân sự và quận lỵ Thượng Đức, chưa dứt điểm trong ngày, ta bao
vây công kích chuẩn bị tấn công đợt 2, dứt
điểm vào ngày 07/8/1974. Toàn bộ tiểu đoàn 79BĐQ và lực lượng ngụy quyền phản động
bị tiêu diệt và bắt sống. Tên quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng tử trận, tên Hà Văn
Lầu dẫn tàn quân chạy về Ba Khe, Trung đoàn 3/f324 chặn đánh bắt sống cùng gần
100 tên địch. Trong những ngày từ 29/7 đến 07/8/1974, Trung đoàn 3 đã phối hợp
cùng Thượng Đức tấn công tiêu diệt điểm chốt Ba Khe, bao vây động Hà Sống, diệt
pháo Núi Đất. Tiểu đoàn 10 Quảng Đà do đồng chí Nguyễn Văn Tảo quê Hội An làm
tiểu đoàn trưởng, tăng cường cho e3/f324 chỉ huy, tiêu diệt địch Gò Cấm,,Trung
đoàn 3 lập trận địa ngăn chặn địch, rải mìn chống cơ giới trên đường 14, cắm cọc
chăng giây làm vật cản trên sông Vu Gia ngăn chặn tàu thuyền địch, liên tục
đánh Sư đoàn 3 va Liên đoàn 14 BĐQ Ngụy lên ứng cứu Thượng Đức. Trung đoàn
3/f324 đã kết hợp tấn công, chốt chặn, chiến đấu quyết liệt. Vận dụng chiến thuật
vận động tấn công kết hợp chốt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mặc dù Thượng Đức
kêu cứu nhưng lực lượng giải tỏa của sư 3 ngụy không thể vượt qua tuyến trận địa
vững chắc của Trung đoàn 3. Đặc biệt đêm 03/8/1974 c10/d9/e3 tập kích tiêu diệt
gọn chi đội xe tăng xe bọc thép 05 chiếc (02 tăng và 03 xe bọc thép) và đại đội
pháo 105 ly 4 khẩu mới di chuyển lên tại Phú Hương Gò Chùa. Niềm hy vọng cuối cùng của ngụy quân ngụy quyền
ở Thượng Đức bị tan biến, để ngày 07/8/1974 bị tiêu diệt.
Phát triển chiến thắng bước một của
Trung đoàn 66/f304 ở Thượng Đức, chuyển sang bước hai chiến dịch, trong 3 ngày
liền (15, 16, 17/8/1974), Trung đoàn 3/f324 đã chuẩn bị trận địa tấn công, cài
thế bao vây sẵn, tập trung lực lượng, được pháo binh Sư đoàn 304 chi viện tấn
công tiêu diệt Tiểu đoàn 2/ e57/f3 ngụy và trận địa pháo ở Gò Tròn Gò Ôm và khu
dồn Hà Nha, Bàn Tân và Động Hà Sống. Kết thúc thắng lợi giòn dã bước 2 của chiến
dịch tấn công.
Vùng giải phóng Thượng Đức được mở rộng
có chiều rộng 15km, chiều sâu hơn 20km theo trục đường 14 uy hiếp Ái Nghĩa. Đà
Năng bị toạc một bên sườn, lực lượng địch hoang mang giao động cực độ. Trước
tình thế đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải bay ra Ái Nghĩa để trấn an tinh thần
bình lính, buộc ông phải tung sư đoàn dù của chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng hành
quân tấn công chiếm lại Thượng Đức.
Kính thưa các đồng chí:
Ngày 17/8 chiến dịch tấn công vừa kết thúc, thì ngày
18/8 sư đoàn dù Ngụy đã triển khai đội hình áp sát trận địa ta và tấn công. Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu có hai sư đoàn tổng dự bị chiến lược là sư đoàn dù và sư
thủy quân lục chiến. Ông hy vọng với lực lượng “Thiên thần mũ đỏ”, át chủ bài của nền cộng hòa sẽ tái chiếm Thượng
Đức trong thời gian ngắn, bịt lấp chỗ trống, củng cố tinh thần binh lính, lập
lai ngụy quyền, ngụy quân ở Hà Tân. Lại được Tư lệnh sư đoàn dù là Lê Quang Lưỡng
hứa trong 20 ngày sẽ tái chiếm Thượng Đức. Lưỡng là tướng trẻ “ tài ba” của quân lực VNCH nên Thiệu càng
vững tin hơn. Lưỡng còn thề độc nếu không tái chiếm được Thượng Đức, sẽ xin thượng
cấp giải tán sư dù (lời thề độc của Lưỡng sau này đã trở thành hiện thực).
Trung đoàn 3/f324 vinh dự được BTL chiến
dịch giao nhiệm vụ phòng ngự đánh quân dù phản kích tái chiếm Thượng Đức bằng
điện thoại. Chấp hành mệnh lệnh, Trung đoàn 3 triển khai toàn đội hình tấn công
tiêu diệt tiểu đoàn địch vừa xong, chưa kịp giải quyết hậu quả đã chuyển ngay
vào phòng ngự giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức, trên một khu vực rộng lớn, với
chính diện khoảng 15km từ bắc cao điểm
1062 đến Bàn Tân, bờ sông Vu Gia, chiều sâu 7km từ cao điểm 109 đên Ba Khe-An
Điềm..
Nhiệm vụ của Trung đoàn rất nặng nề và
khẩn trương. Cán bộ, chiến sỹ tranh thủ ngày đêm bố trí trận địa, đào công sự,
gài mìn, đặt chướng ngại vật trên đường 14 và sông Vu Gia chưa xong, ngày 18//8/1974 lực lượng phía trước
của trung đoàn đã nổ súng chiến đấu. Sư dù triển khai tấn công trên cả ba hướng
theo trục đường 14 đồng bằng, giáp ranh điểm cao 109, 126, Ba Khe, động Hà Sống
và tuyến rừng núi, từ núi Sơn gà đến sân bay An Định bình độ 700m vào điểm cao
1062. Quân dù dùng hỏa lực tối đa, máy bay, pháo binh, chất độc hóa học, xen kẽ
bộ binh quần lộn suốt ngày đêm. Ba lữ đoàn dù thay nhau tấn công chúng dùng nhiều
thủ đoạn chiến thuật “luân xa chiến”,
“đợt sóng liên hồi”, “càng cua hoa thị” liều mạng bám sát chốt
ta hòng đánh chiếm khi chiến sỹ ta mệt mỏi sơ hở, chiến sỹ Trung đoan 3 kiên cường
chiến đấu, đanh bại các mũi các hướng tấn công của địch. Trận địa phòng ngứ của
Trung đoàn 3 liên hoàn vững chắc cả về quyết tâm, công sự và thông tin, các loại
hỏa lực cầu vồng, bắn thẳng nhiều tầng ngăn chặn địch từ xa đên gần, bắn gần bắn
găm vào sườn dốc, bắn lướt sườn, xé nát
đội hình tấn công của địch, chúng không thể tập trung đột phá vào trận địa ta.
Trên các điểm tựa hình tròn liên kết thành cụm điểm tựa, tạo nên khu vực phòng
ngự công sự vững chắc, chiến hào đường cơ động, công sự trận địa hỏa lực nhiều
từng tạo thế liên hoàn chi viên chiến đấu. Bộ đội ta bố trí các loại mìn và
hàng rào cây phía trước và hai bên sườn điêm tựa trận địa, bố trí các tổ chiến
sỹ hỏa lực và bộ binh mai phục dọc khe suối đánh quân dù vu hồi luồn lách bảo vệ
trận địa. Kết hợp công sự, hỏa lực, mìn định hướng chờ cho đich đến thật gần mới
đánh hất chúng xuống, quân dù liều mạng như con thiêu thân, có đại đội chúng chỉ
còn 7 tên chạy về. Chỉ huy các câp, ngày đêm bám sát mọi tình huống chiến đấu của
bộ đội để xử lý kịp thời, chi viện đắc lực cho bộ đội ở trận địa chiến đấu và phản
kích. Hơn một tháng trời (từ 17/8 đến 30/9/1974). Bốn mươi lăm ngày đầu, Sư
đoàn dù bị đánh bại ý chí trước trận địa PN của Trung đoàn 3/f324 chúng bị thiệt
hại cả ba lữ đoàn buộc phải rút về sau củng cố. Lời hứa hai mươi ngày sẽ đánh bật
Việt cộng, tái chiếm Thượng Đức của Lê Quang Lưỡng bị thất sủng. Lực lượng tiểu
đoàn 7/e3 ở 1062 mỏng, Sư đoàn 304 cho Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 chốt giữ trận
địa cao điểm 1062 thay Tiểu đoàn 7/ Trung đoàn 3 về sau củng cố.
Phó tư lệnh Quân đoàn 2 Hoàng Đan chỉ đạo
bộ đội đào hầm moi chống phi pháo địch. Bộ đội ta kéo pháo 85ly và 37ly lên điểm
cao đánh phản đột kích tiêu diệt địch chiếm lại 1062 Trung đoàn 3 sử dụng lực lượng
Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 tiêu diệt tiểu đoàn dù mới lên ở 109 cô lập địch
trên 1062 để tiêu diệt. Trung đoàn còn dùng hỏa lực ĐKZ 75, ĐKZ82, cối các cỡ
60- 82-120 ly và 12,7ly đánh địch, tập trung vào các mũi đột phá của địch mạnh
nhất, bắn chặn, băn lướt sướn, chiến đấu bẻ gãy mọi thủ đoạn chiến thuật của
quân dù. Các đơn vị phòng ngự thường xuyên phái các phân đội nhỏ tinh gọn đánh
phản chuẩn bị tấn công của quân dù dữa các đợt chiến đấu, như phá hủy kho tàng,
tập kích trận địa pháo, cài mìn, phục kích trên đường đi của địch., lực lượng
dù thường xuyên bị tiêu hao rối loạn, hạn chế sức tấn công của chúng. Cuộc chiến đấu trên các điểm cao 1062, 383,
126 và nhất là chốt T2 (BĐ500) của Trung đoàn 3 vô cùng ác liệt, đấu trí, đấu lực
với quân dù 5 tháng liền, nhiều cán bộ, chiến sỹ chiến đấu rất kiên cường dũng
cảm như Trân Quang Diễn chính trị viên đại đội 6/d8, anh chỉ huy đại đội chiến
đấu giữ chốt T2 nhiều ngày, không nao núng trước sự tấn công bu bám quyết liêt
của ba tiểu đoàn dù, nhiều đồng chí dùng hai ba loại vũ khí chiến đấu, chụp lựu
đạn địch ném trả, Diễn ném lựu đan tới tấp vào quân địch, anh bị thương, thông
qua liên lạc chỉ huy chiến đâu, địch tràn lên chôt, anh đề nghị trung đoàn trưởng
bắn hỏa lực trùm lên trận địa, tận mắt quan sát thây địch lố nhố trên chốt T2,
sau vài giây cân nhăc, trung đoàn trưởng ra lệnh cho hỏa lực các cỡ c120mm
82mm, ĐKZ, pháo 37mm dỗi bão lửa lên chốt T2, chúng tháo chạy, bỏ lại trận địa
hơn 40 xác chết, hỏa lưc trận đia hai bên bắn lướt sườn và chặn địch tháo chạy,
tiêu diệt thêm nhiều tên, bộ đội ta chiếm lại chốt thép T2. Gương chiến đấu của khâu đội trưởng Cao Sơn
Sam dũng cảm quyết đoán, không có chỗ giá súng anh vác khẩu ĐKZ82mm, bắn hai
phát liền, diệt gọn một khẩu đại liên và tổ thông tin PRC25 của địch. Cuối cùng sư đoàn dù bị thiệt hại rất nặng, mất
sức chiến đấu phải bỏ cuộc.
Thượng Đức là cuộc hành quân thứ ba (sau An Lộc
và Quảng Trị 1972 ) bị thất bại thảm hại.
Từ đây sư đoàn dù rệu rã không còn phép đi chữa cháy trên các chiến trường, “thiên thần mũ đỏ”, át chủ bài của nền cọng
hòa mất tiền lệ đến đâu sẽ giải quyết
xong ở đó. Năm 1975 Lê Quang Lưỡng mất
quyền chỉ huy sư dù, Nguyễn Văn Thiêu xé lẻ từng lữ đoàn đi be bờ ở đèo Phượng
Hoàng, sân bay Thành Sơn và Xuân Lộc, lần lượt bị tiêu diệt.
Giải phóng và làm chủ vùng giải phóng
Thượng Đức. tiêu diêt và bắt sống toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, thu hồi toàn bộ
quân trang quân dụng. Đánh thiệt hại nặng liên đoàn 14 BĐQ và hai trung đoàn của
Sư 3 ngụy ứng cứu giải tỏa. Đánh bại sư đoàn dù tấn công tái chiếm, giữ vững
vùng giải phóng Thượng Đức, quân và dân huyện Đại Lộc đã hoàn thành xuất sắc,
trọn vẹn nhiệm vụ quân sự và chính trị, mở ra một thế trận mới bên sườn Đà Nẵng,
lực lượng cách mạng phát triển. Sư đoàn dù què quặt, không thể ứng cứu khi tỉnh
Phước Long bị thất thủ, đòn thăm dò thứ hai Phước Long Mỹ - Thiệu không thể gỡ
lại, đã mất sức đề kháng để đi đến thất thủ Buôn Ma Thuật, Huế -Đà Nẵng và chiến
dịch Hồ Chí Minh toàn thắng 30/4 năm 1975.
Để nhận rõ tầm chiến lược của chiến thắng
Thượng Đức, tôi xin trích dẫn những đánh giá của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước thời kỳ đó để chúng ta hiểu, tự hào và khảng định.
“Từ
trận Thượng Đức này, Bộ tổng Tham Mưu đã đi đến nhận định và kết luận, đã báo
cáo với quân ủy trung ương và bộ chính trị khả năng chiến đấu của bộ đội chủ lực
cơ động của ta, đã hơn hẳn chủ lực cơ động của Ngụy. Chiến tranh đã bước vào
giai đoạn cuối, so sánh lực lượng đã thay đổi, ta mạnh lên, địch yêu đi, ta có
thể tiến công tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng nhân dân, giữ vững đất đai
không chỉ ở rừng núi mà cả vùng giáp ranh đồng bằng và thành phố” ( Văn Tiến
Dũng đại thắng mùa xuân Nxb/ QĐND/1976-Trang 18)
“Chiến
thắng Thượng Đức không chỉ chặt đứt cánh cửa thép bảo vệ vòng ngoài của Đà Nẵng,
mà còn có ý nghĩa chiến lược quan trọng vào thời kỳ này. Đó là thước đo về sự
so sánh lực lượng ta và quân chủ lực Ngụy. Từ thực tiễn đó góp phần cho Bộ
chính trị và quân ủy trung ương có những nhận định mới, đề ra quyết sách đúng đắn,
và quyết định trong chiến lược tổng tấn công năm 1975” ( Võ Chí Công, Thượng Đức
cánh cửa thép bị mở toang NXB Đà Nẵng 1994)
“Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức có ý nghĩa rất lớn
về cả chiến thuật, chiến dịch, trong bước phát triển mới của cuộc chiến, tạo đà,
tạo thế, tạo tiền đề và tạo niềm tin vững chắc cho một thời kỳ mới, tiến tới giải
phóng hoàn toàn Miền Nam” ( Lê Khả Phiêu nguyên TBT/ BCHTW Đảng Cộng Sản VN, hồi
ký “ Trung Đoàn- Một thời chiến trận” Nxb/QĐND 2012 trang 6,7). Qua ba đánh giá trên, cho ta thấy chiến thắng Thượng đức,
đánh bại Sư đoàn dú phản kích tái chiếm, giữ vững vùng giải phóng đã mở ra một cục diện mới cho cách mạng miền
Nam, kết quả chiến thắng chiến dịch đã mở
ra tiền đề cho chiến lược, đã đi đến quyết định của BCT và QUTW trong chiến lược
tổng tấn công năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ Quốc.
Những
bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến thắng Thượng Đức.
-Một
là bài học về chọn mục tiêu, chiến dịch, chiến lược:
Chọn
mục tiêu Thượng Đức là một điểm huyệt, mất
Thượng Đức đã ảnh hưởng rất lớn tinh thần binh lính ngụy, diệt được ổ ngụy
quân, ngụy quyền phản động ngoan cố nhất, tạo thế trận hiểm, phát triển lực mạnh
uy hiếp nặng nề Đà Nẵng, nhưng lại là một mục tiêu nhỏ (chi khu quận lỵ) chưa đến
mức quan thầy Mỹ quan tâm phản ứng.
-Hai là bài học về nghệ thuật tác chiến
linh hoạt chủ động sáng tạo:
a. Tiến công kiên quyết, tìm mọi biện
pháp bao vây dứt điểm bằng được mục tiêu, tổ chức chia cắt và phát triển tấn
công nhanh, vừa đánh địch, vừa tạo thế trận tấn công, chủ đông tấn công tiêu diệt
gọn tiểu đoàn địch. Chiến dịch có hai đợt tấn công của hai trung đoàn kết thúc
nhanh gọn, giải phóng hoàn toàn phía tây huyện Đại Lộc
b. Chủ động chuyển vào phòng ngự nhanh,
thế trận liên hoàn vững chắc, tích cực đánh địch, chiến đấu kiên cường; sử dụng
binh lực, hỏa lực tiết kiệm, bố trí trận địa bí mật, hiểm hóc, cách đánh linh
hoạt chủ động sáng tạo, đánh địch cả phía trước và phía sau, đánh phá chuẩn bị
tấn công của địch, khiến chúng không thể đột phá được trận địa ta, không vượt
qua được trận địa PN để vào Thượng Đức, mà còn cay cú lao vào như con thiêu
thân mà chuốc lấy thất bại thảm hại, kết thúc đời làm tướng của Lê Quang Lưỡng
và sứ mệnh sư dù.
c. Sử dụng lực lượng hợp lý, hợp sở trường giữa
Trung đoàn 3 và Trung đoàn 66, hỗ trợ cho nhau hoàn thành nhiệm vụ các bước
trong tấn công và mọi tình huống gây cấn trong phòng ngự. Đánh bại mọi thủ đoạn
tấn công của quân dù, giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức.
d. Lãnh đạo chỉ huy các cấp có ý chí quyết tâm
cao, quyết đoán, kiên quyết, chủ động sáng tạo, nhạy bén, luôn bám sát nhiêm vụ
và diễn biến chiến đấu, bám sát tình huống, xử lý kịp thời, gần gũi chiến sỹ,
luôn luôn có mặt ở trận địa để giữ vững tinh thần cho bộ đội, và động viên kịp
thời, củng cố trận địa trước trong và sau từng đợt tấn công của địch, chỉ huy
thông tin vững chắc…
-Ba
là bài học về sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ lực và địa phương:
Kết hợp chặt chẽ giữa chủ lực và địa
phương, Bộ đội và Dân quân Du kích, đã góp phần quan trọng vào công tác nắm địch,
hợp đồng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong quá trình chiến dịch, là một điều
kiện của binh đoàn chủ lưc tác chiến tại địa phương, địa bàn chiến dịch. Trung đoàn 3 chúng tôi được sự giúp đỡ của du
kích và nhân dân xã Đại Lãnh, Đại Đồng, nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Kính
thưa hội nghị
Sau 40
năm nhìn lại, tôi thấy cuộc chiến đâu trên chiến trường Thượng Đức như mới diễn
ra ngày hôm qua. Tôi không bao giờ quên những gương mặt đồng chí, đồng đội đã
hy sinh anh dũng khi đánh bại quân dù trên các điểm cao 1062, chốt thépT2 (BĐ
500) cao điểm 383-126 với ý chí một tức không đi, một ly không rời, quyêt tâm
giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức.. Đẻ tri ân đồng đội tôi giành một chương
dài viết về cuộc chiến đấu ở Thượng Đức trong cuốn hồi ký “Trung đoàn-Một thời chiến trận” của tôi, được Nxb/QĐND ấn hành
tháng 8/ 2012 và đã tái bản tháng 12/ 2013, nói về cuộc chiến ssấu vô cùng ác
liệt của quân dân Đại Lộc bốn mươi năm trước.
Chiến thắng Thượng Đức đã đi vao lịch sử
với tầm cao chiến lược, là một tia chớp cực mạnh, châm ngòi cho cuộc chiến đấu
giải phóng hoàn toàn Miền Nam, cũng là dòng xoáy lớn cuốn hút quân dù Ngụy,
chúng lao vào cuộc chiến Thượng Đức để bị nhấn chìm, mà không thể ngóc đầu
thoát ra được.. Xương sống Ngụy quân bị đập gãy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
hoàn toàn bó tay khi ta giải phóng tỉnh Phước Long, làm chủ Ban Mê Thuột, chiến
dịch Huế- Đà Nẵng toàn thắng. Các binh đoàn chủ lực của ta thần tốc như vũ bão
vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến công vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ ngụy,
giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước 11h30’ ngày 30/4/1975.