Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

TRUNG ĐOÀN - MỘT THỜI CHIẾN TRẬN: LỜI THƯA TRƯỚC

                            Cùng các đồng chí và bạn đọc,
…“Qua tháng năm càng đậm in kí ức
Giữa ngày vui ai mất ai còn
Trang sử vàng thắm mãi tên anh
Mẹ Việt Nam không bao giờ quên lãng.”
Đó là bốn câu kết trong bài thơ “ Nhớ về đồng đội” tôi viết năm Đinh Hợi (2007). Đến nay đất nước hòa bình, thống nhất đã gần 40 năm, công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu, cuộc sống nhân dân cả nước ngày được cải thiện. Vết tích chiến tranh dần sẽ xóa mờ theo thời gian, các thế hệ trẻ sau này khó nhận biết. Chiến tranh sẽ qua đi, nhưng với bao nhiêu người đã đi cùng dân tộc qua những tháng năm đầy hào hùng gian nan, hy sinh khốc liệt, để lại vết thương lòng cho những người mẹ, người vợ ngày càng hằn sâu, là những chỗ trống không thể lấp đầy, những vết thương không bao giờ kín miệng. Nỗi thương nhớ quặn đau, trông chờ khắc khoải của những người mẹ, người vợ, con em các anh hùng liệt sỹ theo thời gian ngày càng thêm nhức nhối. Chiến tranh đã cướp đi của họ những người thương yêu nhất, cướp đi của họ tuổi thanh xuân đẹp nhất của một đời người, cướp đi những phần trên cơ thể họ, đẻ lại trên người họ và hàng trăm vạn đứa con bị dị dạng dị tật vì di chứng khủng khiếp của chất độc da cam, với những hậu quả không phải mình họ chịu đựng mà còn ảnh hưởng tới nhiều thế hệ con cháu mai sau. Cuộc sống càng khốn khó trong mỗi gia đình anh em cựu chiến binh không có gì bù đắp được…
Chúng tôi, những cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường Trị- Thiên vô cùng ác liệt, gian khổ, sống và chiến đấu trong mưa bom, bão đạn, mưa chất độc hóa học, thiếu muối đói cơm, ăn rau rừng đánh giặc, và cùng nhau viết nên những trang sử oai hùng trong lịch sử dân tộc. Chúng tôi tự hào là những thanh niên ra đi theo tiếng gọi của Đảng, không tiếc tuổi thanh xuân, quyết giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Nỗi thương nhớ về đồng đội, thôi thúc tôi viết những dòng hồi ký này, vì cuộc chiến lùi dần, càng có thời gian hồi tưởng, hiện ra trong ký ức biết bao kỷ niệm xương máu đã qua. Từ khi rời quân ngũ, tôi có thêm khoảng lặng để suy tư hồi tưởng lại một thời máu lửa đã xông pha cùng đồng đội, tôi nghĩ rằng hàng trăm bộ quân sử cũng không thể ghi lại một cách  trung thực đầy đủ cuộc sống chiến đấu và hy sinh anh dũng của đồng đội chúng tôi, không thể lột tả được tình cảm keo sơn như ruột thịt mà anh em trong đơn vị chúng tôi giành cho nhau. Có người nói viết hồi ký là để nói về mình, cho mình, có phần tô điểm thêm. Riêng tôi nghĩ khác. Xuất phát từ sự tri ân, tưởng nhớ đồng đội mà viết, tôi viết những viêc tôi làm, tôi biết, tôi nhớ về đồng đội..
Tôi muốn ghi lại, ôn lại truyền thống Trung đoàn, Sư đoàn đơn vị tôi từng chiến đấu, trưởng thành, lột tả cuộc sống, chiến đấu ác liệt, hy sinh anh dũng của các đồng chí, bạn bè. Nhắc lại tên tuổi, đồng đội là được thắp nén hương lòng, nhớ họ trong đời. Tôi ghi nhớ những bạn bè, đồng chí đã cùng tôi chịu đựng gian khổ hy sinh, đoàn kết thành một khối, đấu trí, đấu lực với kẻ thù tàn bạo; tiêu diệt và đánh bại các sắc lính hung hãn nhất của Mỹ - Ngụy như quân dù, thủy quân lục chiến, bộ binh chủ lực, biệt động quân, biệt động biên phòng, biệt kích, thám báo, bảo an, dân vệ, các đảng phải phản động và ngoan cố ác ôn nhất.
Những chiến trường, những địa danh mà Trung đoàn, Sư doàn bước chân đến, chúng ta đều nhanh chóng thích nghi, nhập cuộc, đoàn kết khiếm tốn học tập bạn, vượt lên thử thách, chiến thắng vẻ vang, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chúng tôi tự hào là đến đâu cũng được nhân dân, cấp trên yêu mến, tin tưởng; trong chiều dài lịch sử chiến đấu, Trung đoàn đã có nhiều ưu điểm, vấp váp khuyết điểm ít, đặc biệt chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chúng ta có quyền tự hào là một tập thể anh hùng. Tôi muốn lột tả những gian khổ, hy sinh trong cuộc sống thiếu đói, trong các mùa, thời tiết khắc nghiệt qua các giai đoạn cách mạng; cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn, Sư đoàn đã đồng cam cộng khổ, khắc phục mọi khó khăn để chiến đấu và chiến thắng trên các chiến trường. Tôi muốn ghi tên rất nhiều các đồng chí đã hy sinh anh dũng, muốn ghi hết tên những anh em đã lập chiến công. Về đời thường thành đạt, các anh thương nhớ nhau lập nên những ban liên lạc truyền thống, hàng năm gặp mặt thăm hỏi, nâng niu tình cảm đồng đội. Tôi cảm kích với những tấm lòng nghĩa tình đó và luôn luôn muốn tham gia, gặp mặt đồng chí, đồng đội.
Là một cán bộ được sống trong một đơn vị giàu truyền thống, với các lớp đàn anh thông minh, dũng cảm, mẫu mực, với rất nhiều đồng đội trung thành xả thân vì nước, tôi đã dần dần phát triển, trưởng thành. Từ một cán bộ trung đội, đại đội ngày đầu thành lập (13/5/1965), khi rời khỏi trung đoàn (tháng 9/1977), tôi là trung đoàn trưởng, vinh dự được hai lần tham gia giải phóng thành phố Huế (1968, 1975), tham gia tất cả các chiến dịch lớn và hai Chiến dịch lịch sử Đắc Pét, Thượng Đức.
Trong hồi ký này, tôi vẫn chưa lột tả hết những chiến công, những hy sinh gian khổ của đồng đội ở chiến trường. Không thể kể xiết những gì đã diễn ra với cán bộ, chiến sĩ, có khi ngoài sức tưởng tượng, chịu đựng của con người. Ngày nay, khi nhìn lại những gì đã vượt qua, đã chiến thắng, càng tự hào về ý chí sắt đá, dũng cảm vô biên và chiến công oanh liệt của chúng ta- Bộ đội Cụ Hồ, đã trở thành huyền thoại. Có thể sau này những người sống trong môi trường hiện tại, không hiểu được, không thể tưởng tượng và hình dung được những gì cha anh đã vượt qua. Mong rằng thời gian sẽ đem lại cho họ niềm tin và tự hào.
Cũng mong rằng khi cuốn hồi ký này đến tay các bạn, sẽ được các bạn đón nhận như món quà giúp các bạn nhớ lại một thời, hiểu thêm đồng đội và mình. Các bạn sẽ dừng lại, suy ngẫm trước vong linh các đồng chí có tên và chưa có tên trong cuốn sách, hãy nhớ về họ, tạo điều kiện thăm hỏi, an ủi gia đình thân nhân các liệt sĩ và bạn bè cùng đơn vị.
Đó là nguyện vọng tha thiết để tôi cố gắng đem hết tâm trí, tình thương và nỗi nhớ cùng cảm xúc để viết nên những dòng hồi ký tâm huyết chân thực này.


Đại tá – Lương y Hồ Hữu Lạn

TRUNG ĐOÀN - MỘT THỜI CHIẾN TRẬN: LỜI GIỚI THIỆU


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với biết bao địa danh kiên cường của Tổ quốc, dải đất Trị Thiên một chiến trường đầy ác liệt, gian khổ và chói lọi vinh quang. Trải qua hàng chục năm chiến đấu quyết liệt, trên dải đất này đã hun đúc, đào luyện nên nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu xuất sắc, trong đó có Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324 là một tập thể anh hùng; đồng chí Hồ Hữu Lạn là một cán bộ  chỉ huy chiến đấu xuất sắc.
Từ năm 1970 đến ngày cuộc kháng chiến chống Mỹ hoàn toàn thắng lợi, tôi đảm nhiệm cương vị Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên, rồi Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2. Chính trong thời kỳ đó, tôi biết đồng chí Hồ Hữu Lạn là Tiểu đoàn trưởng, rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324. Qua trực tiếp chỉ đạo, theo dõi quá trình tham gia chiến đấu, tôi nhận thấy đồng chí Lạn là một cán bộ chỉ huy chiến đấu dũng cảm, mưu trí, chủ động, sáng tạo, lập được nhiều chiến công. Bằng năng lực, phẩm chất và công tích trên từng nhiệm vụ, đồng chí Lạn luôn được cấp trên tin tưởng, cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị quý trọng.
Đồng chí Hồ Hữu Lạn đã từng tham gia chiến đấu ở chiến trường Lào, chiến trường Bắc Quảng Trị, chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) ở thành phố Huế. Trong Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (1971), đồng chí Lạn là Tiểu doàn trưởng chỉ huy đơn vị đánh thắng nhiều trận, góp phần vào chiến thắng chung của Sư đoàn 324 cũng như của toàn Mặt trận. Năm 1972 trên cương vị là Trung đoàn phó, đồng chí Lạn đã cùng các đồng chí chỉ huy Trung đoàn 3 Sư đoàn 324, tổ chức chỉ huy đánh địch trên đường 12- Động Tranh thắng lớn. Đặc biệt là tháng 5 năm 1974, Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324 được giao nhiệm vụ vào Tây Nguyên tham gia chiến dịch tiến công giải phóng Quận lỵ Đắc Pét (Kon Tum). Tiếp đến, từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1974, Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324/ Quân đoàn 2 phối hợp với Sư đoàn 304/ Quân đoàn 2 tiến công giải phóng Chi khu quân sự và Quận lỵ Thượng Đức (Quảng Nam). Rồi kiên cường phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng Thượng Đức trước sự phản kích điên cuồng, quyết liệt của Sư đoàn dù quân ngụy. Trên cương vị là Trung đoàn trưởng, đồng chí Hồ Hữu Lạn đã có công lớn cùng tập thể Đảng ủy, Thủ trưởng Trung đoàn 3 chỉ huy đơn vị vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chiến công xuất sắc của Trung đoàn 3 mà đồng chí Lạn làm Trung đoàn trưởng trong Chiến dịch Đắc Pét và Chiến dịch Thượng Đức có ý nghĩa rất lớn cả về chiến thuật, chiến dịch trong bước phát triển mới của cuộc chiến - tạo đà, tạo thế, tạo tiền đề và tạo niềm tin vững chắc cho một thời kỳ mới - tiến tới giải phóng hoàn toàn Miền Nam.
Cuốn hồi ký “Trung đoàn - Một thời chiến trân” của đồng chí Hồ Hữu Lạn đã ghi lại những sự kiện, những trận chiến đấu, những chiến dịch mà đồng chí trực tiếp tham gia trong chiến tranh và những nhiệm vụ đồng chí đảm nhiệm sau này. Phần chủ yếu của hồi ký là kể về thời kỳ chiến đấu ở Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324. Sự hồi tưởng của tác giả được tái hiện trung thực, sinh động về cuộc chiến đấu ngoan cường, mưu trí, sáng tạo trên chiến trường; những chiến công chói lọi cùng sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ ta. Qua nhiều Chiến dịch, nhiều sự kiện đã đi vào lịch sử. Với sự trải nghiệm phong phú và sự thể hiện chân thực của tác giả, cuốn hồi ký có nhiều tư liệu quí, rất cần cho công tác học tập nghiên cứu và huấn luyện trong các nhà trường và đơn vị quân đội.
 Bằng nhận thức và tình cảm sâu nặng của mình, viết cuốn hồi ký này, đồng chí Hồ Hữu Lạn đã trân trọng nâng niu những chiến công, những kỷ niệm đẹp đẽ của một thời trận mạc, tri ân những đồng đội một thời hoa lửa. Đây không còn là hoài niệm, cảm xúc của một người mà thông qua đó, người đọc - nhất là thế hệ trẻ - hiểu thêm về một thời kỳ lịch sử hào hùng của Quân đội ta, của Dân tộc ta.
Với tất cả những điều đó, tôi giới thiệu cuốn hồi ký “ Trung đoàn - Một thời chiến trận” của đồng chí Đại tá Hồ Hữu Lạn cùng bạn đọc.



Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2011


                                                



LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư BCHTW Đảng CSVN

Nguyên Chủ nhiệm TCCT Quân đội NDVN

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

THAM LUẬN

 Chiến dịch giải phóngThượng Đức, chiến thắng mang tầm chiến lược Góp phấn đánh bại âm mưu chiến lược “Tràn ngập lãnh thổ” Phá hoại Hiệp Định Pa-Ri của Mỹ-Ngụy
(Nhân kỷ niêm 40 năm chiến thắng Thượng Đức 07/ 8/1974  - 07/ 8/2014)
 


Đại tá Hồ Hữu Lạn
Nguyên, Trung đoàn trưởng Trung đoàn3/f324
Chỉ huy chiến đấu giải phóng-,bảo vệ ThượngĐức . 
                                                                                                  
           Kính thưa toàn thể hội nghị:
      Ngay sau hiệp định Pari (27/01/1973) được ký kết, Mỹ ngụy ra sức phá hoại hiệp định. Chúng thực hiện âm mưu chiến lươc “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng. Địch bố trí nhiều lực lượng đồn trú, cắm sâu vào hậu phương chúng ta và các vùng giáp ranh tranh chấp, nhằm ngăn chặn tiếp tế, chuyển quân, thăm dò, móc nối mở rộng lấn chiếm hậu phương vùng giải phóng của ta, từng bước đẩy lùi phong trào cách mạng miền Nam.
       Trước tình hình đó, Nghị quyết hội nghị lần thứ hai mươi mốt của BCHTW Đảng đã khảng định “Con đường cách mạng miền Nam, là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”  (Văn kiện Đảng toàn tập, tập34 Nxb-CTQG, H2004,tr232)
Trên chiến trường, quân và dân ta đã đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch. Với phương châm tấn công và làm chủ - làm chủ để tấn công, phát huy thế và lực của cách mạng Miền Nam trong thời kỳ mới. Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam lên kế hoạch tấn công giải phóng một số mục tiêu của địch nằm sâu trên vùng giải phóng của ta như Chư Nghé,Đắc Pét, Thượng Đức xóa các vết “da báo”, xây dựng thế trận tấn công, rèn luyện lực lượng Bộ đội ta trên các chiến trường, sẵn sàng chiến đấu để giải phóng Miền Nam.
Chi khu quân sự và Quận lỵ Thượng Đức là cụm căn cứ vững chắc bảo vệ sườn Đà Nẵng, cách Đà Nẵng gần 50 km về phí Tây – Tây Nam. Thượng Đức có địa hình hiểm yếu, nằm giữa hợp lưu sông Vu Gia và sông Côn, liên hoàn với Gò Cấm – Ba Khe và động Hà Sống (Cao điểm 52), ba bề là núi cao, dốc đứng, đồi núi hiểm trở, địch có điều kiện ngăn chặn ta từ xa bằng các tiền đồn và lực lượng cơ động, thám báo…
Do đặc điểm địa hình hiểm trở, nên từ trước đây, thời Pháp đến Mỹ, thời Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu đều thấy giá trị chiến thuật, chiến dịch của địa hình Thượng Đức. Chúng ra sức xây dựng thành cụm tiền đồn vững chắc, nhằm phát hiện ngăn chặn ta từ xa, bảo vệ an toàn cho Đà nẵng.
Quân khu 1 Ngụy được cố vấn Mỹ đầu tư công của và tư vấn quân sự; đã bố trí xây dựng Thượng Đức một cụm tiền đồn mạnh, hoàn chỉnh, kín đáo và hiểm hóc,có công sự vững chắc, hàng rào kẽm giai xen lẫn các loại mìn kiên cố, cài cắm nhiều lực lượng vòng ngoài để phát hiện ta từ xa. Thượng Đức nằm trong hệ thống phòng ngự mạnh, có lực lượng ứng cứu kịp thời. Với một lực lượng ngụy quân, ngụy quyền phản động ngoan cố bậc nhất, do tên thiếu tá quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng và thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 79 BĐQ Hà Văn Lầu chỉ huy. Đẻ ngăn chặn quân ta tấn công, chúng dồn 13.000 dân về Hà Tân để dễ bề kìm kẹp và làm bia đỡ đạn. Tông thống Nguyễn Văn Thiệu mệnh danh Thượng Đức là “Mắt ngọc của đầu rồng”, tỉnh trưởng Quảng Nam đặt tên Thượng Đức là “cánh cửa thép” bất khả xâm phạm bảo vệ khu liên hợp quân sự mạnh nhất miền trung- Đà Nẵng. Bọn phản dộng đầu sõ ở Thượng Đức kiêu ngạo chủ quan tuyên bố “Nước sông Vu Gia chảy ngươc thì Việt Cộng mới chiếm được Thượng Đức”. Thượng Đức trở thành niềm tự hào, chỗ dựa tin cậy của ngụy quân ngụy quyền và Đà Nẵng
Đối với ta, Thượng Đức như một cái gai cần phải nhổ, một mắt xích cần phải chặt đứt để khai thông con đường tiến về đồng bằng, giải phóng Đà Nẵng. Vì vậy tiêu diệt địch, giải phóng làm chủ Thượng Đức là một yêu cầu cấp thiết, để tạo thế hiểm, lực mạnh bên sườn Đà Nẵng, là cửa mở, đầu cầu, để thực hiện đòn tấn công hiểm vào giáp ranh đồng bằng và thành phố, chặt đất một mắt xích phòng ngự của địch, uy hiếp đô thị, nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ - Ngụy. Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam, do Trung tướng, Phó tổng TMT Lê Trọng Tấn trực tiếp giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 304/Quân đoàn 2 sử dụng Trung đoàn 66, được tăng cường Trung đoàn 3/ Sư đoàn 324 chiến đấu, mở chiến dịch tấn công  giải phóng Thượng Đức
Bộ chỉ huy chíến dịch, đặt tên chiến dịch giải phóng Thượng Đức là K711 chia làm ba bước:
Bước 1:
Trung đoàn 66/f304 tấn công tiêu diệt cụm căn cứ của tiểu đoàn 79 và chi khu quận lỵ Thượng Đức; Trung đoàn 3/f324 tiêu diệt Gò Cấm, Ba Khe, bao vây Hà Sống, diệt pháo núi lở, chía cắt chiến dịch đánh quân giải tỏa và bao vây đón lỏng phía Đông Thượng Đức, bảo đảm cho Trung đòan 66/f304 dứt điểm.
Bước 2:
Trung đoàn 3/f324 tiêu diệt địch lên ứng cứu co cụm ở Hà Nha, Bàn Tân và động Hà Sống (Điểm cao 52) kết thúc chiến dịch tấn công e66/f304 làm dự bị.
Bước 3:
Phát triển chiến dịch (giao nhiệm vụ sau). Sau này là chiến dịch phòng ngự đánh quân dù phản kích tái chiếm 5 tháng trời bảo vệ vùng giải phóng tây Huyện Đại Lộc ( tháng 8 đến tháng 12 năm 1974).
Yêu cầu chiến dịch K711 tiêu diệt gọn, bắt và xóa sổ các tổ chức phản động của chi khu quân sự và quận lỵ Thượng Đức, làm chủ địa bàn, xây dựng hậu phương chiến lược của ta, sẵn sàng tấn công giải phóng Đà Nẵng.        
Trong quá trình chuẩn bị và thực hành chiếm đấu, chúng tôi có sự giup đỡ và phối hơp chiến đấu của cấp ủy, chính quyền  và nhân dân Quảng Đà, trực tiêp là các huyện Giàng-Trao-Đại Lộc, dân quân du kich các xã Đại Lãnh, Đại Đồng, đã cùng hai trung đoàn bộ binh và các đơn vị pháo bịnh, công binh làm đường kéo pháo, trinh sát địa hình, trinh sát địch, hai tháng trời chuẩn bị chiến đấu.                                
5h ngày 29/7/1974, Trung đoàn 66/f304 tấn công chi khu quân sự và quận lỵ Thượng Đức, chưa dứt điểm trong ngày, ta bao vây công  kích chuẩn bị tấn công đợt 2, dứt điểm vào ngày 07/8/1974. Toàn bộ tiểu đoàn 79BĐQ và lực lượng ngụy quyền phản động bị tiêu diệt và bắt sống. Tên quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng tử trận, tên Hà Văn Lầu dẫn tàn quân chạy về Ba Khe, Trung đoàn 3/f324 chặn đánh bắt sống cùng gần 100 tên địch. Trong những ngày từ 29/7 đến 07/8/1974, Trung đoàn 3 đã phối hợp cùng Thượng Đức tấn công tiêu diệt điểm chốt Ba Khe, bao vây động Hà Sống, diệt pháo Núi Đất. Tiểu đoàn 10 Quảng Đà do đồng chí Nguyễn Văn Tảo quê Hội An làm tiểu đoàn trưởng, tăng cường cho e3/f324 chỉ huy, tiêu diệt địch Gò Cấm,,Trung đoàn 3 lập trận địa ngăn chặn địch, rải mìn chống cơ giới trên đường 14, cắm cọc chăng giây làm vật cản trên sông Vu Gia ngăn chặn tàu thuyền địch, liên tục đánh Sư đoàn 3 va Liên đoàn 14 BĐQ Ngụy lên ứng cứu Thượng Đức. Trung đoàn 3/f324 đã kết hợp tấn công, chốt chặn, chiến đấu quyết liệt. Vận dụng chiến thuật vận động tấn công kết hợp chốt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mặc dù Thượng Đức kêu cứu nhưng lực lượng giải tỏa của sư 3 ngụy không thể vượt qua tuyến trận địa vững chắc của Trung đoàn 3. Đặc biệt đêm 03/8/1974 c10/d9/e3 tập kích tiêu diệt gọn chi đội xe tăng xe bọc thép 05 chiếc (02 tăng và 03 xe bọc thép) và đại đội pháo 105 ly 4 khẩu mới di chuyển lên tại Phú Hương Gò Chùa.  Niềm hy vọng cuối cùng của ngụy quân ngụy quyền ở Thượng Đức bị tan biến, để ngày 07/8/1974 bị tiêu diệt. 
Phát triển chiến thắng bước một của Trung đoàn 66/f304 ở Thượng Đức, chuyển sang bước hai chiến dịch, trong 3 ngày liền (15, 16, 17/8/1974), Trung đoàn 3/f324 đã chuẩn bị trận địa tấn công, cài thế bao vây sẵn, tập trung lực lượng, được pháo binh Sư đoàn 304 chi viện tấn công tiêu diệt Tiểu đoàn 2/ e57/f3 ngụy và trận địa pháo ở Gò Tròn Gò Ôm và khu dồn Hà Nha, Bàn Tân và Động Hà Sống. Kết thúc thắng lợi giòn dã bước 2 của chiến dịch tấn công.
Vùng giải phóng Thượng Đức được mở rộng có chiều rộng 15km, chiều sâu hơn 20km theo trục đường 14 uy hiếp Ái Nghĩa. Đà Năng bị toạc một bên sườn, lực lượng địch hoang mang giao động cực độ. Trước tình thế đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải bay ra Ái Nghĩa để trấn an tinh thần bình lính, buộc ông phải tung sư đoàn dù của chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng hành quân tấn công chiếm lại Thượng Đức.
Kính thưa các đồng chí:
Ngày 17/8 chiến dịch tấn công vừa kết thúc, thì ngày 18/8 sư đoàn dù Ngụy đã triển khai đội hình áp sát trận địa ta và tấn công. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có hai sư đoàn tổng dự bị chiến lược là sư đoàn dù và sư thủy quân lục chiến. Ông hy vọng với lực lượng “Thiên thần mũ đỏ”, át chủ bài của nền cộng hòa sẽ tái chiếm Thượng Đức trong thời gian ngắn, bịt lấp chỗ trống, củng cố tinh thần binh lính, lập lai ngụy quyền, ngụy quân ở Hà Tân. Lại được Tư lệnh sư đoàn dù là Lê Quang Lưỡng hứa trong 20 ngày sẽ tái chiếm Thượng Đức. Lưỡng là tướng trẻ “ tài ba” của quân lực VNCH nên Thiệu càng vững tin hơn. Lưỡng còn thề độc nếu không tái chiếm được Thượng Đức, sẽ xin thượng cấp giải tán sư dù (lời thề độc của Lưỡng sau này đã trở thành hiện thực).
Trung đoàn 3/f324 vinh dự được BTL chiến dịch giao nhiệm vụ phòng ngự đánh quân dù phản kích tái chiếm Thượng Đức bằng điện thoại. Chấp hành mệnh lệnh, Trung đoàn 3 triển khai toàn đội hình tấn công tiêu diệt tiểu đoàn địch vừa xong, chưa kịp giải quyết hậu quả đã chuyển ngay vào phòng ngự giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức, trên một khu vực rộng lớn, với chính diện  khoảng 15km từ bắc cao điểm 1062 đến Bàn Tân, bờ sông Vu Gia, chiều sâu 7km từ cao điểm 109 đên Ba Khe-An Điềm..
Nhiệm vụ của Trung đoàn rất nặng nề và khẩn trương. Cán bộ, chiến sỹ tranh thủ ngày đêm bố trí trận địa, đào công sự, gài mìn, đặt chướng ngại vật trên đường 14 và sông Vu Gia  chưa xong, ngày 18//8/1974 lực lượng phía trước của trung đoàn đã nổ súng chiến đấu. Sư dù triển khai tấn công trên cả ba hướng theo trục đường 14 đồng bằng, giáp ranh điểm cao 109, 126, Ba Khe, động Hà Sống và tuyến rừng núi, từ núi Sơn gà đến sân bay An Định bình độ 700m vào điểm cao 1062. Quân dù dùng hỏa lực tối đa, máy bay, pháo binh, chất độc hóa học, xen kẽ bộ binh quần lộn suốt ngày đêm. Ba lữ đoàn dù thay nhau tấn công chúng dùng nhiều thủ đoạn chiến thuật “luân xa chiến”, “đợt sóng liên hồi”, “càng cua hoa thị” liều mạng bám sát chốt ta hòng đánh chiếm khi chiến sỹ ta mệt mỏi sơ hở, chiến sỹ Trung đoan 3 kiên cường chiến đấu, đanh bại các mũi các hướng tấn công của địch. Trận địa phòng ngứ của Trung đoàn 3 liên hoàn vững chắc cả về quyết tâm, công sự và thông tin, các loại hỏa lực cầu vồng, bắn thẳng nhiều tầng ngăn chặn địch từ xa đên gần, bắn gần bắn găm  vào sườn dốc, bắn lướt sườn, xé nát đội hình tấn công của địch, chúng không thể tập trung đột phá vào trận địa ta. Trên các điểm tựa hình tròn liên kết thành cụm điểm tựa, tạo nên khu vực phòng ngự công sự vững chắc, chiến hào đường cơ động, công sự trận địa hỏa lực nhiều từng tạo thế liên hoàn chi viên chiến đấu. Bộ đội ta bố trí các loại mìn và hàng rào cây phía trước và hai bên sườn điêm tựa trận địa, bố trí các tổ chiến sỹ hỏa lực và bộ binh mai phục dọc khe suối đánh quân dù vu hồi luồn lách bảo vệ trận địa. Kết hợp công sự, hỏa lực, mìn định hướng chờ cho đich đến thật gần mới đánh hất chúng xuống, quân dù liều mạng như con thiêu thân, có đại đội chúng chỉ còn 7 tên chạy về. Chỉ huy các câp, ngày đêm bám sát mọi tình huống chiến đấu của bộ đội để xử lý kịp thời, chi viện đắc lực cho bộ đội ở trận địa chiến đấu và phản kích. Hơn một tháng trời (từ 17/8 đến 30/9/1974). Bốn mươi lăm ngày đầu, Sư đoàn dù bị đánh bại ý chí trước trận địa PN của Trung đoàn 3/f324 chúng bị thiệt hại cả ba lữ đoàn buộc phải rút về sau củng cố. Lời hứa hai mươi ngày sẽ đánh bật Việt cộng, tái chiếm Thượng Đức của Lê Quang Lưỡng bị thất sủng. Lực lượng tiểu đoàn 7/e3 ở 1062 mỏng, Sư đoàn 304 cho Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 chốt giữ trận địa cao điểm 1062 thay Tiểu đoàn 7/ Trung đoàn 3 về sau củng cố.
Phó tư lệnh Quân đoàn 2 Hoàng Đan chỉ đạo bộ đội đào hầm moi chống phi pháo địch. Bộ đội ta kéo pháo 85ly và 37ly lên điểm cao đánh phản đột kích tiêu diệt địch chiếm lại 1062 Trung đoàn 3 sử dụng lực lượng Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 tiêu diệt tiểu đoàn dù mới lên ở 109 cô lập địch trên 1062 để tiêu diệt. Trung đoàn còn dùng hỏa lực ĐKZ 75, ĐKZ82, cối các cỡ 60- 82-120 ly và 12,7ly đánh địch, tập trung vào các mũi đột phá của địch mạnh nhất, bắn chặn, băn lướt sướn, chiến đấu bẻ gãy mọi thủ đoạn chiến thuật của quân dù. Các đơn vị phòng ngự thường xuyên phái các phân đội nhỏ tinh gọn đánh phản chuẩn bị tấn công của quân dù dữa các đợt chiến đấu, như phá hủy kho tàng, tập kích trận địa pháo, cài mìn, phục kích trên đường đi của địch., lực lượng dù thường xuyên bị tiêu hao rối loạn, hạn chế sức tấn công của chúng.  Cuộc chiến đấu trên các điểm cao 1062, 383, 126 và nhất là chốt T2 (BĐ500) của Trung đoàn 3 vô cùng ác liệt, đấu trí, đấu lực với quân dù 5 tháng liền, nhiều cán bộ, chiến sỹ chiến đấu rất kiên cường dũng cảm như Trân Quang Diễn chính trị viên đại đội 6/d8, anh chỉ huy đại đội chiến đấu giữ chốt T2 nhiều ngày, không nao núng trước sự tấn công bu bám quyết liêt của ba tiểu đoàn dù, nhiều đồng chí dùng hai ba loại vũ khí chiến đấu, chụp lựu đạn địch ném trả, Diễn ném lựu đan tới tấp vào quân địch, anh bị thương, thông qua liên lạc chỉ huy chiến đâu, địch tràn lên chôt, anh đề nghị trung đoàn trưởng bắn hỏa lực trùm lên trận địa, tận mắt quan sát thây địch lố nhố trên chốt T2, sau vài giây cân nhăc, trung đoàn trưởng ra lệnh cho hỏa lực các cỡ c120mm 82mm, ĐKZ, pháo 37mm dỗi bão lửa lên chốt T2, chúng tháo chạy, bỏ lại trận địa hơn 40 xác chết, hỏa lưc trận đia hai bên bắn lướt sườn và chặn địch tháo chạy, tiêu diệt thêm nhiều tên, bộ đội ta chiếm lại chốt thép T2.  Gương chiến đấu của khâu đội trưởng Cao Sơn Sam dũng cảm quyết đoán, không có chỗ giá súng anh vác khẩu ĐKZ82mm, bắn hai phát liền, diệt gọn một khẩu đại liên và tổ thông tin PRC25 của địch.  Cuối cùng sư đoàn dù bị thiệt hại rất nặng, mất sức chiến đấu phải bỏ cuộc.
 Thượng Đức là cuộc hành quân thứ ba (sau An Lộc và Quảng Trị 1972 )  bị thất bại thảm hại. Từ đây sư đoàn dù rệu rã không còn phép đi chữa cháy trên các chiến trường, “thiên thần mũ đỏ”, át chủ bài của nền cọng hòa mất tiền lệ  đến đâu sẽ giải quyết xong ở đó.  Năm 1975 Lê Quang Lưỡng mất quyền chỉ huy sư dù, Nguyễn Văn Thiêu xé lẻ từng lữ đoàn đi be bờ ở đèo Phượng Hoàng, sân bay Thành Sơn và Xuân Lộc, lần lượt bị tiêu diệt.
Giải phóng và làm chủ vùng giải phóng Thượng Đức. tiêu diêt và bắt sống toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, thu hồi toàn bộ quân trang quân dụng. Đánh thiệt hại nặng liên đoàn 14 BĐQ và hai trung đoàn của Sư 3 ngụy ứng cứu giải tỏa. Đánh bại sư đoàn dù tấn công tái chiếm, giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức, quân và dân huyện Đại Lộc đã hoàn thành xuất sắc, trọn vẹn nhiệm vụ quân sự và chính trị, mở ra một thế trận mới bên sườn Đà Nẵng, lực lượng cách mạng phát triển. Sư đoàn dù què quặt, không thể ứng cứu khi tỉnh Phước Long bị thất thủ, đòn thăm dò thứ hai Phước Long Mỹ - Thiệu không thể gỡ lại, đã mất sức đề kháng để đi đến thất thủ Buôn Ma Thuật, Huế -Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng 30/4 năm 1975.
Để nhận rõ tầm chiến lược của chiến thắng Thượng Đức, tôi xin trích dẫn những đánh giá của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước thời kỳ đó để chúng ta hiểu, tự hào và khảng định.
“Từ trận Thượng Đức này, Bộ tổng Tham Mưu đã đi đến nhận định và kết luận, đã báo cáo với quân ủy trung ương và bộ chính trị khả năng chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động của ta, đã hơn hẳn chủ lực cơ động của Ngụy. Chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối, so sánh lực lượng đã thay đổi, ta mạnh lên, địch yêu đi, ta có thể tiến công tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng nhân dân, giữ vững đất đai không chỉ ở rừng núi mà cả vùng giáp ranh đồng bằng và thành phố” ( Văn Tiến Dũng đại thắng mùa xuân Nxb/ QĐND/1976-Trang 18)
“Chiến thắng Thượng Đức không chỉ chặt đứt cánh cửa thép bảo vệ vòng ngoài của Đà Nẵng, mà còn có ý nghĩa chiến lược quan trọng vào thời kỳ này. Đó là thước đo về sự so sánh lực lượng ta và quân chủ lực Ngụy. Từ thực tiễn đó góp phần cho Bộ chính trị và quân ủy trung ương có những nhận định mới, đề ra quyết sách đúng đắn, và quyết định trong chiến lược tổng tấn công năm 1975” ( Võ Chí Công, Thượng Đức cánh cửa thép bị mở toang NXB Đà Nẵng 1994)
“Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức có ý nghĩa rất lớn về cả chiến thuật, chiến dịch, trong bước phát triển mới của cuộc chiến, tạo đà, tạo thế, tạo tiền đề và tạo niềm tin vững chắc cho một thời kỳ mới, tiến tới giải phóng hoàn toàn Miền Nam” ( Lê Khả Phiêu nguyên TBT/ BCHTW Đảng Cộng Sản VN, hồi ký “ Trung Đoàn- Một thời chiến trận” Nxb/QĐND 2012 trang 6,7). Qua ba đánh giá trên, cho ta thấy chiến thắng Thượng đức, đánh bại Sư đoàn dú phản kích tái chiếm, giữ vững vùng giải phóng  đã mở ra một cục diện mới cho cách mạng miền Nam,  kết quả chiến thắng chiến dịch đã mở ra tiền đề cho chiến lược, đã đi đến quyết định của BCT và QUTW trong chiến lược tổng tấn công năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ Quốc.
       Những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến thắng Thượng Đức.
-Một là bài học về chọn mục tiêu, chiến dịch, chiến lược:
 Chọn mục tiêu Thượng Đức  là một điểm huyệt, mất Thượng Đức đã ảnh hưởng rất lớn tinh thần binh lính ngụy, diệt được ổ ngụy quân, ngụy quyền phản động ngoan cố nhất, tạo thế trận hiểm, phát triển lực mạnh uy hiếp nặng nề Đà Nẵng, nhưng lại là một mục tiêu nhỏ (chi khu quận lỵ) chưa đến mức quan thầy Mỹ quan tâm phản ứng.
-Hai là bài học về nghệ thuật tác chiến linh hoạt chủ động sáng tạo:
a. Tiến công kiên quyết, tìm mọi biện pháp bao vây dứt điểm bằng được mục tiêu, tổ chức chia cắt và phát triển tấn công nhanh, vừa đánh địch, vừa tạo thế trận tấn công, chủ đông tấn công tiêu diệt gọn tiểu đoàn địch. Chiến dịch có hai đợt tấn công của hai trung đoàn kết thúc nhanh gọn, giải phóng hoàn toàn phía tây huyện Đại Lộc
b. Chủ động chuyển vào phòng ngự nhanh, thế trận liên hoàn vững chắc, tích cực đánh địch, chiến đấu kiên cường; sử dụng binh lực, hỏa lực tiết kiệm, bố trí trận địa bí mật, hiểm hóc, cách đánh linh hoạt chủ động sáng tạo, đánh địch cả phía trước và phía sau, đánh phá chuẩn bị tấn công của địch, khiến chúng không thể đột phá được trận địa ta, không vượt qua được trận địa PN để vào Thượng Đức, mà còn cay cú lao vào như con thiêu thân mà chuốc lấy thất bại thảm hại, kết thúc đời làm tướng của Lê Quang Lưỡng và sứ mệnh sư dù.
          c.  Sử dụng lực lượng hợp lý, hợp sở trường giữa Trung đoàn 3 và Trung đoàn 66, hỗ trợ cho nhau hoàn thành nhiệm vụ các bước trong tấn công và mọi tình huống gây cấn trong phòng ngự. Đánh bại mọi thủ đoạn tấn công của quân dù, giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức.
          d.   Lãnh đạo chỉ huy các cấp có ý chí quyết tâm cao, quyết đoán, kiên quyết, chủ động sáng tạo, nhạy bén, luôn bám sát nhiêm vụ và diễn biến chiến đấu, bám sát tình huống, xử lý kịp thời, gần gũi chiến sỹ, luôn luôn có mặt ở trận địa để giữ vững tinh thần cho bộ đội, và động viên kịp thời, củng cố trận địa trước trong và sau từng đợt tấn công của địch, chỉ huy thông tin vững chắc…
-Ba là bài học về sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ lực và địa phương:
Kết hợp chặt chẽ giữa chủ lực và địa phương, Bộ đội và Dân quân Du kích, đã góp phần quan trọng vào công tác nắm địch, hợp đồng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong quá trình chiến dịch, là một điều kiện của binh đoàn chủ lưc tác chiến tại địa phương, địa bàn chiến dịch.   Trung đoàn 3 chúng tôi được sự giúp đỡ của du kích và nhân dân xã Đại Lãnh, Đại Đồng, nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
           Kính thưa hội nghị
       Sau 40 năm nhìn lại, tôi thấy cuộc chiến đâu trên chiến trường Thượng Đức như mới diễn ra ngày hôm qua. Tôi không bao giờ quên những gương mặt đồng chí, đồng đội đã hy sinh anh dũng khi đánh bại quân dù trên các điểm cao 1062, chốt thépT2 (BĐ 500) cao điểm 383-126 với ý chí một tức không đi, một ly không rời, quyêt tâm giữ vững vùng giải phóng Thượng Đức.. Đẻ tri ân đồng đội tôi giành một chương dài viết về cuộc chiến đấu ở Thượng Đức trong cuốn hồi ký “Trung đoàn-Một thời chiến trận” của tôi, được Nxb/QĐND ấn hành tháng 8/ 2012 và đã tái bản tháng 12/ 2013, nói về cuộc chiến ssấu vô cùng ác liệt của quân dân Đại Lộc bốn mươi năm trước.
Chiến thắng Thượng Đức đã đi vao lịch sử với tầm cao chiến lược, là một tia chớp cực mạnh, châm ngòi cho cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn Miền Nam, cũng là dòng xoáy lớn cuốn hút quân dù Ngụy, chúng lao vào cuộc chiến Thượng Đức để bị nhấn chìm, mà không thể ngóc đầu thoát ra được.. Xương sống Ngụy quân bị đập gãy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn bó tay khi ta giải phóng tỉnh Phước Long, làm chủ Ban Mê Thuột, chiến dịch Huế- Đà Nẵng toàn thắng. Các binh đoàn chủ lực của ta thần tốc như vũ bão vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến công vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ ngụy, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước 11h30’ ngày 30/4/1975.